1
Bạn cần hỗ trợ?
Trang chủ / Sự kiện bình luận / Người lao động được chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp nào?

Người lao động được chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp nào?

LSVNO - Khi người lao động muốn chấm dứt hợp đồng lao động thông thường người lao động sẽ viết đơn xin thôi việc và ngay sau đó muốn chấm dứt công việc. Tuy nhiên, khi chấm dứt hợp đồng lao động không đúng trình tự sẽ gây thiệt hại cho doanh nghiệp và bản thân người lao động. Vì vậy, pháp luật lao động quy định như sau:


Các trường hợp được chấm dứt hợp đồng lao động

Theo quy định tại khoản 1 Điều 37 Bộ Luật lao động năm 2012 và Điều 11 Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ Luật lao động thì người lao động phải có lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc một trong các trường hợp sau:

1. Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

2. Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

3. Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động.

4. Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện Hợp đồng lao động (HĐLĐ). Cụ thể các trường hợp: Phải nghỉ việc để chăm sóc vợ hoặc chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố vợ, mẹ vợ hoặc bố chồng, mẹ chồng, con đẻ, con nuôi bị ốm đau, tai nạn; Khi ra nước ngoài sinh sống hoặc làm việc; Gia đình gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh hoặc chuyển chỗ ở mà người lao động đã tìm mọi biện pháp nhưng không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ.

5. Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

6. Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;

7. Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 36 Bộ Luật lao động người lao động có thể chấm dứt hợp đồng khi hết hạn hợp đồng, người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu theo quy định.

Thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ

Người lao động phải tuân thủ thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động theo quy định khoản 2 Điều 37 của Bộ Luật lao động. Thời hạn báo trước của người lao động phụ thuộc vào loại hợp đồng và cụ thể từng trường hợp người lao động chấm dứt hợp đồng:

- Người lao động phải báo trước ít nhất là ba ngày nếu người lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo lý do: không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong HĐLĐ; không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong HĐLĐ; bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

- Người lao động phải báo trước ít nhất 30 ngày nếu chấm dứt hợp đồng vì lý do bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ nếu là hợp đồng xác định thời hạn.

- Đối với trường hợp người lao động là phụ nữ có thai phải nghỉ việc do chỉ định của thầy thuốc thì thời hạn báo trước tùy thuộc vào thời hạn do thời hạn do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định.

- Đối với người lao động làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ Luật lao động.

Khi không đúng quy định nêu trên sẽ thuộc trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật.

Theo quy định tại Điều 43 Bộ Luật lao động 2012 thì khi người lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật sẽ không được hưởng trợ cấp thôi việc ngay cả khi thỏa mãn điều kiện đi làm đủ thường xuyên từ 12 tháng trở lên. Đồng thời, người lao động phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo HĐLĐ.

Trường hợp người lao động vi phạm về thời hạn báo trước việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

Trường hợp việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ làm vi phạm hợp đồng đào tạo nghề đã ký kết trước đó, người lao động phải chịu trách nhiệm hoàn trả lại chi phí đào tạo đó theo quy định của pháp luật.

Chấm dứt hợp đồng lao động nên tuân thủ đúng luật là nghĩa vụ của người lao động, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ lao động.

LS Phạm Thị  Bích Hảo

Xem thêm: http://lsvn.vn/tro-giup-phap-ly/tu-van/nguoi-lao-dong-duoc-cham-dut-hop-dong-lao-dong-trong-nhung-truong-hop-nao-26872.html