1
Bạn cần hỗ trợ?
Trang chủ / Tin tức hoạt động / Điểm mới của Luật tư pháp người chưa thành niên

Điểm mới của Luật tư pháp người chưa thành niên

Luật tư pháp người chưa thành niên có hiệu lực từ 1/1/2026 Luật thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Việc Quốc hội xem xét, thông qua Luật Tư pháp người chưa thành niên tại Kỳ họp này là một dấu ấn thể hiện sự đóng góp quan trọng của Quốc hội khóa XV về công tác cải cách tư pháp. Việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, giải quyết vụ án hình sự, xử lý chuyển hướng, thi hành án phạt tù, tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên được áp dụng theo quy định của Luật này và theo quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, luật khác không trái với quy định của Luật này.


* Cấu trúc:

Luật Tư pháp người chưa thành niên được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 8 gồm 10 chương và 179 điều.

* Mục đích lý do ban hành:

Xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên là yêu cầu tất yếu nhằm thực hiện chủ trương của Đảng về “phát triển hệ thống tư pháp thân thiện và bảo vệ trẻ em”; cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013; thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên. Đặc biệt, thực hiện Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nhằm hoàn thiện pháp luật tư pháp đủ nghiêm khắc nhưng cũng bảo đảm nhân văn đối với người chưa thành niên phạm tội; tăng cường giáo dục, hỗ trợ, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội tự sửa chữa lỗi lầm; xây dựng quy trình thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với độ tuổi, tâm lý và vì lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên;…

1. Luật quy định 12 biện pháp xử lý chuyển hướng

Luật Tư pháp người chưa thành niên đưa ra một hệ thống các biện pháp xử lý chuyển hướng nhằm can thiệp và giáo dục đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật, nhằm tạo cơ hội cho họ tái hòa nhập cộng đồng và phòng ngừa tái phạm. Các biện pháp này được thiết kế không chỉ dựa trên nguyên tắc nhân đạo, mà còn nhằm bảo vệ quyền lợi của người vi phạm và đảm bảo hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm. Cụ thể, các biện pháp xử lý chuyển hướng bao gồm: Khiển trách; Xin lỗi nạn nhân; Bồi thường thiệt hại; Giáo dục tại cộng đồng; Quản thúc tại gia đình; Hạn chế thời gian và khu vực di chuyển; Cấm tiếp xúc với các đối tượng có nguy cơ dẫn đến tái phạm; Cấm đến các địa điểm có nguy cơ tái phạm; Tham gia các chương trình học tập, đào tạo nghề; Tham gia chương trình điều trị hoặc tư vấn tâm lý; Thực hiện các công việc phục vụ cộng đồng; Giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Tiếp đó, Luật cũng quy định một cách chặt chẽ các điều kiện và thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý này, với mục tiêu đảm bảo tính hợp lý và công bằng trong việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên vi phạm. Những quy định này không chỉ bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chưa thành niên mà còn góp phần củng cố hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững của cộng đồng.

2. Đổi mới biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế đối với người chưa thành niên bị buộc tội

Luật Tư pháp người chưa thành niên quy định một số biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên (NCTN), cụ thể là 10 biện pháp sau: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Tạm giữ, tạm giam; Giám sát điện tử; Giám sát bởi người đại diện hợp pháp; Bảo lĩnh, đặt tiền bảo đảm; Cấm rời khỏi nơi cư trú; Tạm hoãn xuất cảnh.

Ngoài ra, Luật còn quy định 03 biện pháp cưỡng chế có thể áp dụng đối với NCTN, bao gồm: Áp giải, dẫn giải; Kê biên tài sản; Phong tỏa tài khoản.

Việc điều chỉnh và đổi mới các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế đối với NCTN là cần thiết và hợp lý. Điều này không chỉ giúp bảo vệ trật tự an toàn xã hội mà còn đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho NCTN. Đồng thời, qua đó giúp họ nhận thức về hành vi sai trái, từ đó tạo điều kiện để cải tạo và trở thành những công dân có ích cho xã hội.

3. Quy định người làm công tác xã hội trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên

Luật quy định các đối tượng tham gia công tác xã hội trong tư pháp đối với người chưa thành niên (NCTN), gồm: công chức, viên chức, người lao động làm công tác xã hội, cán bộ bảo vệ trẻ em cấp xã và các cá nhân khác theo pháp luật.

Ngoài ra, người làm công tác xã hội phải có hiểu biết pháp luật về NCTN và được đào tạo về tâm lý học hoặc có kỹ năng giao tiếp với NCTN.

Mục đích của quy định này là đảm bảo hiệu quả trong việc tham gia tố tụng, giúp NCTN nhận thức lỗi lầm, hạn chế tái phạm và giảm chi phí tố tụng, tái hòa nhập cộng đồng.

4. Rút ngắn thời hạn tố tụng đối với NCTN bị buộc tội

Một điểm nổi bật của Luật Tư pháp người chưa thành niên là việc rút ngắn thời gian điều tra, truy tố và xét xử đối với NCTN. Cụ thể, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đối với NCTN sẽ không quá 1/2 thời gian so với người trưởng thành, trừ trường hợp vụ án phức tạp, khi thời gian sẽ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quy định này nhằm đảm bảo việc giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến NCTN, giảm thiểu tác động tiêu cực từ thủ tục tố tụng và áp dụng thủ tục thân thiện đối với NCTN.

5. Quy định nhiều hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội

Luật quy định đối với người chưa thành niên phạm tội, chỉ có thể áp dụng một trong các hình phạt sau: (1) Cảnh cáo, (2) Phạt tiền, (3) Cải tạo không giam giữ, (4) Tù có thời hạn.

Việc quy định đa dạng hình phạt giúp dễ dàng lựa chọn phương án phù hợp, hạn chế áp dụng hình phạt tù khi NCTN có thể được xử lý bằng các biện pháp khác, từ đó đảm bảo công bằng và bình đẳng trong pháp luật. Quy định này cũng góp phần thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị về giảm hình phạt tù và mở rộng áp dụng hình phạt tiền.

6. Giảm mức phạt tù có thời hạn

Luật quy định giảm mức án tù đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi từ 12 năm xuống 9 năm, và đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi từ 18 năm xuống 15 năm, trừ các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe và ma túy như giết người, hiếp dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, và sản xuất ma túy.

Quy định này thể hiện chính sách nhân văn, phù hợp với yêu cầu của Đảng về cải cách chính sách hình sự, đồng thời phù hợp với xu hướng quốc tế. Nó giúp đảm bảo mức hình phạt công bằng, vừa bảo vệ nghiêm minh pháp luật, vừa đảm bảo an toàn cho cộng đồng.

7. Tách vụ án hình sự có người chưa thành niên phạm tội để giải quyết độc lập

Một điểm đáng chú ý trong Luật Tư pháp người chưa thành niên là quy định tại khoản 1 Điều 143, trong đó nếu vụ án có cả bị can là người chưa thành niên và người thành niên, Cơ quan điều tra sẽ tách vụ án để giải quyết độc lập đối với bị can là NCTN. Tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình giải quyết các vụ án này sẽ được sử dụng cho từng vụ án riêng biệt.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan để quy định chi tiết việc thực hiện điều này.

Quy định này thể hiện chính sách nhân văn, thân thiện đối với NCTN trong tố tụng hình sự, bảo vệ quyền lợi của NCTN và hạn chế tác động tiêu cực từ các bị can là người trưởng thành.

 

8. Quy định 2 thủ tục tố tụng riêng biệt đối với NCTN

Luật quy định 2 thủ tục tố tụng riêng biệt gồm: (1) Thủ tục tố tụng đối với NCTN là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội; (2) Thủ tục tố tụng đối với NCTN là bị hại, người làm chứng.

 

9. Quy định thủ tục xét xử thân thiện

Luật Tư pháp người chưa thành niên quy định về phòng xử án và thủ tục xét xử thân thiện tại Mục 4, Chương VII. Cụ thể, Điều 151 yêu cầu phiên tòa phải bảo đảm quyền lợi hợp pháp của NCTN, với thủ tục thân thiện. Thẩm phán chủ tọa mặc trang phục hành chính của Tòa án, và Kiểm sát viên mặc trang phục phù hợp, không phải trang phục Kiểm sát nhân dân.

Trong phiên tòa, NCTN không bị còng tay hoặc áp dụng biện pháp cưỡng chế, trừ khi có hành vi chống đối hoặc gây rối. Người đại diện của NCTN có thể tham gia hỗ trợ trong suốt phiên tòa.

Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của NCTN và tạo điều kiện xét xử công bằng, nhân văn.

10. Quy định trại giam dành riêng cho NCTN

Luật quy định ba mô hình giam giữ đối với NCTN chấp hành án phạt tù: (1) trại giam riêng, (2) phân trại riêng trong trại giam, hoặc (3) khu giam giữ riêng trong trại giam. Các cơ sở này phải được thiết kế phù hợp với lứa tuổi, giới tính và tính chất tội phạm, đảm bảo có các khu vực như buồng giam, khu học tập, thể thao, lao động, dạy nghề, chăm sóc y tế, khu thăm gặp và các công trình khác theo quy định.

Luật cũng quy định chế độ chăm sóc y tế, học văn hóa, giáo dục nghề nghiệp, sinh hoạt và giải trí cho NCTN phạm nhân, cũng như quyền liên lạc với thân nhân.

Các quy định này nhằm đảm bảo giáo dục và cải tạo NCTN, đồng thời thể hiện cam kết của Việt Nam về việc tách biệt NCTN khỏi người trưởng thành khi thi hành án, phù hợp với các khuyến nghị quốc tế.

Luật Đức An tổng hợp

Công ty luật TNHH Đức An

VĂN PHÒNG GIAO DỊCH: Số 64b, phố Nguyễn Viết Xuân, phường Khương Mai, quận Thanh Xuân, Hà Nội

ĐT 090 220 1233 

Web: www.luatducan.vn

Youtube: Luật sư Phạm Thị Bích Hảo

Email: luatsubichhao@gmail.com