1
Bạn cần hỗ trợ?
Trang chủ / Tranh tụng / Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu

Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu

Theo quy định tại Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS) thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” và quy định tại Điều 116 BLDS thì “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự nên khi có những quy định riêng về hợp đồng thì áp dụng những quy định riêng, khi không có những quy định riêng thì phải áp dụng những quy định chung về giao dịch dân sự.


  1. Hợp đồng vô hiệu?

Có 8 trường hợp, khi hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau thì hợp đồng vô hiệu

Trường hợp 1: Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội .

Theo Điều 123 BLDS 2015, khi mục đích, nội dung của hợp đồng vi phạm những quy định mà pháp luật cấm, trái với những quy tắc ứng xử chung trong đời sống xã hội thì hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu.

Trường hợp 2 : Hợp đồng vô hiệu do giả tạo.

Theo quy định tại Điều 124 BLDS 2015, việc giả tạo ở đây được hiểu là giao dịch dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba.

Trường hợp 3:Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.

Theo quy định tại Điều 125 BLDS, hợp đồng trong các trường hợp này vô hiệu do vi phạm quy định về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng bởi các chủ thể trên không đáp ứng đủ yếu tố về năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên có các yếu tố ngoại lệ sau khiến hợp đồng không vô hiệu:

+ Hợp đồng giao kết bởi người dưới 06, người mất năng lực hành vi dân sự nhưng nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của họ;

+ Hợp đồng đó chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho các đối tượng thuộc trường hợp trên với người đã giao kết hợp đồng với họ;

+ Hợp đồng được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

Trường hợp 4: Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn.

Nghĩa là, “có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch” – Điều 126 BLDS 2015. Việc nhầm lẫn này được xác định do hai bên nhận thức, phán đoán sai về đối tượng của hợp đồng.

Trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được, giao dịch đó sẽ không vô hiệu.

Trường hợp 5 : Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.

Lừa dối được xác định là hành vi cố ý nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng nên giao kết hợp đồng. Đe dọa, cưỡng ép là hành vi cố ý làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

Bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ep khi tham gia giao kết hợp đồng có quyền yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng đó.

Trường hợp 6: Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

Trường hợp này được quy định tại Điều 128 BLDS 2015 : “Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu”. Người xác lập hợp đồng hoàn toàn có quyền yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng trong thời hạn 02 năm kể từ thời điểm giao kết hợp đồng.

Trường hợp 7: Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức.

Điều 129 BLDS 2015 quy định hợp đồng được coi là vô hiệu vì vi phạm quy định về hình thức ( buộc phải lập thành văn bản nhưng lại không lập hoặc phải công chứng, chứng thực nhưng không công chứng, chứng thực) trừ trường hợp một trong các bên hoặc các bên đã thực hiện được ít nhất hai phần ba nghĩa vụ được giao kết trong hợp đồng.

Trường hợp 8 : Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.

Theo quy định tại Điều 408 BLDS 2015, ngay từ thời điểm giao kết, hợp đồng đã bị coi là vô hiệu nếu đối tượng của hợp đồng là không thể thực hiện.

Quy định này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được, nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý.

  1. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu

Thứ nhất, về quyền và nghĩa vụ của các bên khi giao kết hợp đồng

Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm hợp đồng được xác lập. Nếu thực hiện mới xác lập, chưa thực hiện thì các bên không thực hiện. Nếu các bên đang thực hiện thì không tiếp tục thực hiện hợp đồng. Pháp luật dân sự không công nhận và bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng vô hiệu ngay cả khi các bên đã thực hiện xong hợp đồng.

Thứ hai, phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận

Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

Thứ ba, Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Khi giao dịch dân sự vô hiệu, nếu các bên có yêu cầu giải quyết bồi thường thì Tòa án có trách nhiệm xác định thiệt hại. Về nguyên tắc, một bên chỉ phải bồi thường cho bên kia khi có thiệt hại xảy ra, không có thiệt hại thì không có trách nhiệm bồi thường.

Về nguyên tắc, người có lỗi gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Tuy nhiên thực tế, có thể tồn tại lỗi của một bên hoặc lỗi của hai bên. Trong trường hợp tồn tại lỗi của hai bên làm cho giao dịch dân sự vô hiệu thì phải xác định mức độ lỗi của các bên để thấy được thiệt hại cụ thể để quy trách nhiệm bồi thường tương ứng theo lỗi của mỗi bên.

Luật sư chuyên dân sự 090 220 1233